Cách đây phần tư thế kỷ, chúng tôi được Quân khu 5 mời đến Đà Nẵng dự họp mặt nửa thế kỷ văn nghệ sĩ và báo chí các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên của thời kháng chiến.
NSND Đàm Liên trong trích đoạn tuồng Ông già cõng vợ đi xem hội. Ảnh: TL |
Trong giờ giải lao, nhà văn Thanh Quế nhìn thấy một bóng hồng với tà áo dài thướt tha từ đám đông bước ra. Anh reo lên: A, Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) đồng hương Đàm Liên đây rồi! Đoạn Thanh Quế quay sang phía chúng tôi, giới thiệu với chị: Còn đây là anh em văn nghệ sĩ trong Phú Yên ra dự họp mặt.
NSND Đàm Liên niềm nở bước lại bắt tay thăm hỏi từng người trong đoàn: Tham gia kháng chiến có nhà thơ Liên Nam (lúc ấy là Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên), nhà thơ lão thành Văn Công, nhà văn Y Điêng, nhà thơ Xuân Tính (tức Bùi Tân), nhà thơ Lương Nguyên (tức Lương Thúc Quý) và nghệ sĩ Lê Hữu Phước, nguyên Trưởng đoàn Văn công Phú Yên trong kháng chiến, kế sau Trưởng đoàn Vũ Trung Uyên).
Hoạt động nội thành có nhà thơ Nguyễn Kim Ngân, tác giả bài thơ nổi tiếng Người mẹ Bàn Cờ, sáng tác trong phong trào sinh viên tranh đấu ở miền Nam trước năm 1975, được phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, và tôi. Ngoài ra còn có Huỳnh Thạch Thảo, khi đó làm việc tại Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên, sau này trở thành nhà văn. Nhìn từng anh em văn nghệ sĩ đồng hương, chị như gặp lại quê nhà sau nhiều năm xa cách, bao kỷ niệm rôm rả ùa về theo từng mẩu chuyện không dứt. Năm ấy chị đã trên 50 nhưng quá trẻ so với tuổi tác. Tôi thầm khen: Đúng là con gái La Hai, danh bất hư truyền!
Xuân này là năm đầu tiên NSND Đàm Liên rời xa chúng ta. Công chúng yêu mến “nữ hoàng sân khấu tuồng” sẽ không bao giờ quên tài năng và những dấu ấn rực rỡ mà chị để lại. |
Đàm Liên sinh năm 1943, quê La Hai, huyện Đồng Xuân - nơi có dòng sông Kỳ Lộ mang nước về xuôi; nơi mà hồn thơ Xuân Tính bay bổng, góp phần chắp cánh cho nhạc sĩ Hoàng Thơ Huy tạo nên lời ca ngọt ngào: “Sáng tháng tư La Hai mù sương. Chiều tháng tư La Hai nồm mát…”.
Chị chào đời nơi thị trấn mù sương, trong gia đình có truyền thống nghệ thuật tuồng cổ. Ông ngoại chị làm chủ một gánh hát bội nổi tiếng với biệt danh “Bầu Leo”. Mẹ chị là nghệ nhân Trần Thị Bảy, đào chính gánh hát của ngoại. Bà hát hay, lại xinh đẹp. Trong gia đình Đàm Liên (Đàm Thị Liên) còn có chị Đàm Thị Mai và em gái Đàm Thị Thanh (sau này trở thành Nghệ sĩ Ưu tú Đàm Thanh) đều hát rất hay và đẹp người.
Suốt những năm kháng chiến chống Pháp, Phú Yên là vùng tự do. Cuối năm 1953 đầu năm 1954, giặc càn đến Phú Yên. Vì là thành phần theo kháng chiến nên gia đình chị phải tản cư, lánh nạn. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), chị theo gia đình tập kết ra Bắc như về với miền đất hứa, tiếp tục được các bậc thầy uy tín rèn luyện và nâng cao kỹ năng biểu diễn nghệ thuật tuồng cổ.
Năm 16 tuổi, Đàm Liên vinh dự được biểu diễn cho Bác Hồ xem. Chị vào vai Trưng Trắc trong vở tuồng Trưng nữ vương và được Bác khen. Sau đó chị được giao hàng loạt vai diễn, như: Đào Tam Xuân (vở Nữ tướng Đào Tam Xuân), An Tư công chúa ở vở diễn cùng tên, Ái Nương (vở Trần Bình Trọng), bà huyện (vở Nghêu-Sò-Ốc-Hến), Phương Cơ (vở Ngọn lửa Hồng Sơn), Loan Dung (vở Lý Phụng Đình)… cùng nhiều vai diễn đình đám khác.
Chị đã nhanh chóng khẳng định tên tuổi của mình, đoạt nhiều huy chương vàng, bạc trong nước và quốc tế ở cả hai lĩnh vực: diễn viên và đạo diễn. Năm 1993, Đàm Liên được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND. Đây là nữ nghệ sĩ người Phú Yên đầu tiên được phong tặng danh hiệu NSND cao quý.
Trong một bài báo cách đây hàng chục năm, tác giả Ngô Thanh Hằng nhận xét: Sau vai diễn Hồ Nguyệt Cô rất thành công, Đàm Liên được khán giả yêu mến gọi là “Ái nữ tình sầu”, biệt danh này vốn chỉ dành cho nghệ sĩ Út Bạch Lan ở miền Nam trước đây. Nhưng những vai diễn nổi trội ấy vẫn không át được vai diễn trong trích đoạn Ông già cõng vợ đi xem hội.
NSND Đàm Liên đã lập kỷ lục với hơn 2.000 suất diễn Ông già cõng vợ đi xem hội phục vụ công chúng nước nhà và nhiều nước Á, Âu, Mỹ latinh…; đã được Đài Truyền hình Việt Nam giới thiệu trong chương trình Chuyện lạ có thật. Ở nước ta chưa từng có một loại hình nghệ thuật nào mà diễn viên lại “độc quyền” vai diễn trong hơn 2 thập kỷ liên tục vẫn làm say đắm khán giả, hút khách như chị.
Với những đóng góp to lớn, năm 1997, chị được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng nhì. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam từng nhận xét: “Tuồng là loại hình nghệ thuật có niêm luật ngặt nghèo nhất trong các loại hình nghệ thuật sân khấu, vì thế rất kén người xem… Trong đời sống hối hả, thực dụng hôm nay, không phải ai cũng thích tuồng. Nhưng dù những người không thích tuồng, họ vẫn mê Đàm Liên, và vì Đàm Liên mà họ đến với nghệ thuật tuồng”.
Xuân này là năm đầu tiên NSND Đàm Liên rời xa chúng ta. Công chúng yêu mến “nữ hoàng sân khấu tuồng” sẽ không bao giờ quên tài năng và những dấu ấn rực rỡ mà chị để lại.
NGUYỄN TƯỜNG VĂN